Những khái niệm cơ bản trong công tác bảo tồn di sản văn hoá
1. Khái niệm và nội hàm khái niệm
Bàn về công tác bảo tồn, trùng tu và tái thiết di sản văn hoá không thể không nhắc đến Công ước Bura 1999. Công ước này đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho việc bảo tồn và quản lý các di sản văn hóa dựa trên những nội dung cơ bản của Công ước Venice 1964. Công ước Bura được Ủy ban Quốc gia ICOMOS của Úc thông qua vào tháng 8/1979, được sửa đổi vào tháng 2/1981, tháng 4/1988 và tháng/1999. Các phạm trù khái niệm được đề cập xuyên suốt bài báo này bao gồm Bảo tồn (Conservation), Trùng tu (Restoration) và Tái thiết (Reconstruction) mà đối tượng mục tiêu là Di sản Kiến trúc sẽ được đề cập sau đây.
a. Di tích và Di sản
Khái niệm Di tích (Monument) được định nghĩa hẹp và cụ thể: “Di tích có thể là một tảng đá, cột trụ, địa điểm khảo cổ, công trình kiến trúc hoặc một hình hài vật chất công trình lịch sử được dựng lên để tưởng nhớ một người đã khuất, một sự kiện hoặc một hành động đã xảy ra, và cũng là điểm đánh dấu vĩnh viễn chẳng hạn như một cột đá đánh dấu ranh giới được sử dụng để định vị con đường hoặc góc giới hạn khu di tích” (Burden, ISBN 0-07-142838-0). Do đó, có nhiều loại hình di tích đã được xác định như di tích lịch sử – văn hóa, di tích khảo cổ, đài tưởng niệm hòa bình, tượng đài chiến thắng, tượng đài danh nhân văn hóa.
Trong khi đó, khái niệm Di sản (Heritage) chắc chắn hàm ý một món quà cho thế hệ tương lai và cho lợi ích kinh tế cho cộng đồng (Aplin, ISBN 019551297-9), hoặc Di sản là tài sản, truyền thống được truyền thừa từ quá khứ mà vẫn có ý nghĩa và giá trị cho hiện tại và tương lai (Burden, ISBN 0-07-142838-0).
Theo đó, khái niệm Di sản (Heritage) và Di tích (Monument) được phân biệt rõ ràng hơn. Di sản không chỉ đơn thuần được cấu thành bởi những giá trị vật chất (tangible values) mà còn bao gồm cả giá trị phi vật chất (intangible values).
b. Di sản Văn hoá và Di sản Kiến trúc
Di sản Văn hóa (Cultural Heritage) là sản phẩm chứa đựng cả yếu tố vật thể và phi vật thể được tạo ra thông qua lịch sử trong suốt quá trình sử dụng văn minh (nguồn tham chiếu văn hóa) của mỗi cộng đồng dân tộc.
Di sản Kiến trúc (Architectural Heritage), là những đơn nguyên công trình kiến trúc hoặc quần thể công trình kiến trúc mang đặc tính di sản, được xây dựng bằng công nghệ và vật liệu truyền thống, là biểu hiện hữu hình của không gian và thời gian đại diện cho một giai đoạn lịch sử cụ thể, vẫn chứa đựng ý nghĩa và giá trị cho hiện tại và tương lai.
Theo đó, nếu Di tích trong hình hài một thực thể kiến trúc bao gồm sự kết hợp nhiều yếu tố cấu thành gốc, không thể sao chép, không thể tái tạo mà chỉ có thể bảo tồn nguyên vẹn hình hài nguyên bản của nó thì gọi là Di tích Kiến trúc; Di sản trong hình hài của công trình kiến trúc bao gồm cả cấu trúc vật chất (tangible) và nguồn GEN ẩn chứa trong nó (intangible), có thể được tái tạo bằng cách tiếp tục không lai tạp nguồn GEN đó trong trường hợp bị phá hủy thì gọi là Di sản Kiến trúc.
Do đó, Di tích Kiến trúc là một nguyên mẫu độc nhất trong khi Di sản Kiến trúc có thể là phiên bản “N” của nguyên mẫu đó và có thể được tái tạo trong quá trình sử dụng xuyên suốt lịch sử. Đối với trường hợp di dời ngôi chùa Yakushiji (năm 718 CN) tại TP Nara (Nhật Bản), việc tái thiết toà tháp phía Tây (năm 1980) dựa trên nguồn GEN di sản tham khảo từ bản vẽ thiết kế toà tháp phía Đông, là yếu tố cấu thành gốc của ngôi chùa này có từ thế kỷ thứ 8 A.D, có lẽ là một ví dụ điển hình cho luận thuyết này (hình 1, 2, 3).
c. Bảo tồn, Trùng tu và Tái thiết
Như vậy, khái niệm Bảo tồn, Trùng tu và Tái thiết di sản nên được hiểu như thế nào, và mối quan hệ giữa chúng ra sao? Dưới đây là bảng so sánh định nghĩa trong từ điển của Ernest Burden 1 và nội dung tương ứng trong Công ước Bura 1999 (bảng 1).
Bảng 1. So sánh định nghĩa
Với những thông tin trên, chúng tôi xin được diễn giải nội hàm cụm khái niệm này như sau:
- Bảo tồn là cách tích lũy di sản để làm giàu quỹ di sản cho mỗi cộng đồng dân tộc và cộng đồng Thế giới.
- Trùng tu là cách thức nhận biết giá trị di sản và trả lại giá trị chân xác cho di sản đó.
- Tái thiết là cách đọc hiểu di sản để tái tạo nguồn DNA của nó nhằm bảo tồn bền vững di sản đó.
Vì vậy, Bảo tồn là khái niệm tập hợp của Trùng tu và Tái thiết. Theo đó, các cụm khái niệm tập hợp con sẽ được sẽ được triển khai như là những giải pháp bảo tồn sẽ được áp dụng tuỳ theo mức độ yêu cầu can thiệp kỹ thuật đối với từng công trình di sản kiến trúc gồm: Bảo vệ (Protection), Bảo quản (Maintainance), Gia cố (Consolidation), Gia cường (Reinforcement), Trùng tu (Restoration), Phục hồi (Rehabilitation) và Tái thiết (Reconstruction). Như vậy, tất cả những giải pháp này được đề xuất áp dụng đồng thời (hoặc không đồng thời) đều nhằm đáp ứng nhiệm vụ của dự án bảo tồn đặt ra.
Nếu “Di tích Kiến trúc” là tài sản vật chất, độc nhất vô nhị và không thể tái tạo thì “Di sản Kiến trúc” là loại hình tài sản văn hóa bao gồm cả yếu tố vật thể (tangible) và phi vật thể (intanggible) có khả năng tái tạo. Yếu tố hữu hình của “Di sản Kiến trúc” được hiểu là sự tồn tại của chúng bao gồm bản vẽ thiết kế kiến trúc, yếu tố vô hình bao gồm ý tưởng kiến trúc và sự hiểu biết đầy đủ về thực thể di sản kiến trúc đó dựa trên tính xác thực của các nguồn tài liệu và khả năng có thể tái tạo dựa trên nguồn DNA Di sản được truyền thừa.
Giải mã sách “Kiwari shou” bởi chuyên gia và thợ mộc truyền thống Nhật Bản
Bảo tồn cấu kiện nguyên gốc và giải mã ký tự mang thông tin lưu truyền kiến trúc di sản Nhật Bản
Mã lưu truyền (transmission code) và nguồn DNA di sản (heritage DNA)
Lưu truyền là bản năng của mọi sự sống, lưu truyền vô thức đảm bảo sự tiến hóa, lưu truyền hữu thức đảm bảo sự phát triển. Phương thức lưu truyền đó được mệnh danh là Bảo tồn2. Bảo tồn di sản văn hóa là hình thức lưu truyền hữu thức do con người thực hiện, trước hết nhằm bảo đảm sự phát triển văn hóa của mỗi cộng đồng dân tộc và rộng hơn là văn hóa của nhân loại. Để bảo tồn thành công nguồn GEN văn hóa, cần làm rõ mã lưu truyền di sản văn hóa của từng cộng đồng dân tộc. Công thức di truyền sinh học (DNA) là bài toán khó, công thức di truyền di sản văn hóa (DNA Di sản) cũng là một bài toán khó, nhưng không có nghĩa là không giải mã được mà/hoặc có thể, sẽ có một hướng dẫn thông minh để làm việc này do các chuyên gia quốc tế cung cấp.
Quy mô kinh đô Nara thế kỷ 8-9
Điều mà người Nhật muốn truyền tải thông qua Công ước Nara về bảo tồn và tái thiết di sản kiến trúc giống như việc nhân bản vô tính “Cừu Dolly” trong sinh học để thiết lập cơ sở pháp lý quốc tế cho việc tái thiết những di sản kiến trúc quý giá đã bị mất trong quá khứ mà điển hình là Hoàng cung Nara (Heijoukyo) ở TP Nara, Nhật Bản (hình 8, 9, 10, 11, 12). Từ tham vọng mãnh liệt và sự đột phá của Nhật Bản thông qua Công ước Nara mà cả một quần thể di sản Hoàng cung Nara đã ngủ yên trong lòng đất suốt 13 thế kỷ bỗng hồi sinh mạnh mẽ. Điều này cho thấy rằng, nếu hiểu theo nghĩa nội hàm thì khái niệm Văn minh (Civilization) là những phát minh, sáng tạo nhằm cải thiện cho tốt hơn điều kiện sống của loài người trên địa cầu thì Văn hiến (Liturature) là thời gian sử dụng văn minh ấy, đúc rút thành kinh nghiệm, viết ra thành sách vở, và Văn hóa (Culture) là phương cách sử dụng văn minh riêng của mỗi cộng đồng dân tộc, mà từ đó, có thể sáng tạo nên văn hóa trên nền tảng tiếp biến văn minh.
Ở góc độ xã hội, di sản là nguồn GEN di sản bền vững giúp củng cố và tái tạo bản sắc văn hóa. Từ quan điểm kỹ thuật, sự hiểu biết đầy đủ và thấu đáo về mã lưu truyền hay còn có thể gọi là DNA Di sản sẽ giúp tái tạo di sản. Về mặt bảo tồn, điều đó sẽ giúp các hoạt động trùng tu và tái thiết di sản đạt được mục tiêu về tính chân xác và chất lượng bảo tồn. Về mặt kinh tế, thành tựu bảo tồn sẽ thu hút tình cảm, khôi phục sự ngưỡng mộ và lòng tôn kính của cộng đồng đối với những thành tựu văn hóa của nhân loại thông qua di sản, từ đó kinh tế du lịch sẽ phát triển. Thiết lập công thức DNA Di sản là quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa cũng mỗi cộng đồng dân tộc nói chung, và đối với Việt Nam nói riêng.
Mô hình tái thiết tỉ lệ 1/1 khu vực trung tâm Hoàng cung Nara
Công trình Suzakumon (Chu Tước Môn) – Cổng chính Hoàng Cung Nara, được tái thiết và được công nhận là Di sản văn hoá thế giới năm 1996
Thay lời kết
Sự hiện hữu và tình trạng bảo tồn của Di tích Huế hiện nay cho thấy khả năng tái sinh với đầy đủ những đặc trưng giá trị và tính chân xác theo tinh thần Công ước Nara như đã đề cập trên đây. Ngoài ra, quần thể di tích này còn hàm chứa đặc tính giá trị tình cảm rất quan trọng là giá trị bản sắc, tính liên tục của truyền thống, sự ngưỡng mộ, lòng tôn kính, sự cao cả của biểu tượng và sự sâu sắc của tinh thần mà rất nhiều thế hệ người Việt Nam và cộng đồng quốc tế đã nỗ lực để gìn giữ, bảo tồn và vinh danh.
Lịch sử minh chứng cho sức mạnh nội lực của dân tộc Việt Nam thông qua 1000 năm Bắc thuộc, 100 năm thuộc địa thực dân Pháp, vẫn không bị đồng hóa, không bị nhấn chìm, 10.000 ngày chiến đấu vì tự do, độc lập thống nhất đất nước, và cuối cùng đã chiến thắng. Vì đâu dân tộc Việt Nam có được nội lực phi thường đó, câu trả lời chỉ có thể là vì Văn hóa Việt được truyền thừa liên tục từ thế hệ này qua thế hệ khác. Văn hóa là khái niệm vô hình nhưng được cảm thụ từ những yếu tố tác động hữu hình, là thực thể sống luôn biến đổi thích ứng (Adaptive Living Object). Văn hóa hun đúc lòng yêu nước, mỗi khi văn hóa bị dồn nén, chà đạp thì lòng yêu nước sẽ kích hoạt tinh thần quật khởi quật cường. Lịch sử dựng nước và giữa nước của Việt Nam đã chứng minh điều đó.
Nghiên cứu này chắt lọc những khái niệm cơ bản từ các văn bản pháp lý quốc tế và Luật Di sản văn hoá Việt Nam, diễn giải nội hàm khái nhiệm: Bảo tồn, Trùng tu và Tái thiết, góp phần định hướng thiết lập các dự án bảo tồn trong tương lai. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng đã đề xuất khái niệm “Mã lưu truyền” (Transmision Code) và “DNA Di sản” (Heritage DNA) như là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo nhằm thiết lập công thức lưu truyền văn hóa thông qua di sản kiến trúc.
Hình 11. Phế tích nền móng Suzakumon (nguồn: Catalog Nabunken, 2004)
Xin cảm ơn TS.KTS. Lê Vĩnh An đã gửi đến chúng tôi bài viết này!
TS.KTS. Lê Vĩnh An – Viện Trưởng Viện Kỹ thuật Công nghệ Việt – Nhật, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
KS. Nguyễn Thế Sơn – Phó Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Cung Đình Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam
ThS. Nguyễn Thị Kim Nhung – Giảng viên, Viện Đào tạo và Nghiên cứu Du lịch, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 12-2022)
Chú thích:
1) Enest Burden, “Từ điển minh hoạ về Kiến trúc Bảo tồn” (Illustrated Dictionary of Architectural Preservation), ISBN 0-07-142838-0)
2) Hoàng Đạo Kính, Văn hóa Kiến trúc, NXB Tri Thức, Hà Nội 2012, tr. 3